Thiết kế SMS Von der Tann

Vũ khí

Hình ảnh dựng ba chiều của Von der Tann

Von der Tann mang tám khẩu pháo SK 28 cm (11 in) L/45[Ghi chú 5] đặt trên bốn tháp pháo nòng đôi, gồm một phía trước, một phía sau và hai tháp pháo đặt so le qua mạn. Các khẩu pháo được đặt trên bệ kiểu Drh.L C/1907, vốn được xoay bằng điện, nhưng bản thân các khẩu pháo được nâng bằng thủy lực.[8] Nòng pháo có thể nâng cho đến góc 20°, cho phép có được tầm bắn tối đa 18.900 m (20.700 yd). Một đợt tái trang bị vào năm 1915 đã gia tăng tầm bắn tối đa lên 20.400 m (22.300 yd). Kiểu pháo này bắn ra đạn pháo xuyên thép nặng 302 kg (666 lb) với lưu tốc đầu đạn 875 m/s (2.870 ft/s) bằng liều thuốc phóng chính đặt trong vỏ bằng đồng. Có tổng cộng 660 quả đạn được chứa trong bốn phòng đạn pháo cho bốn tháp pháo, mỗi phòng có 165 quả.[8] Hai tháp pháo giữa tàu được đặt so le cho phép tất cả bốn tháp pháo đều có thể bắn qua mạn với một góc rất rộng.[14]

Không giống như những đối thủ Anh đương thời, Von der Tann còn mang một dàn pháo hạng hai mạnh bao gồm mười khẩu pháo SK 15 cm (5,9 in) L/45 đặt trên các bệ MPL C/06 bố trí trong các tháp pháo ụ, mỗi khẩu được cung cấp 150 quả đạn công pháđạn xuyên thép. Vào lúc chế tạo, các khẩu pháo này có thể bắn đạn pháo nặng 45,3 kg (100 lb) đến mục tiêu ở khoảng cách 13.500 m (14.800 yd); và sau đợt tái trang bị năm 1915, tầm xa được nâng lên 16.800 m (18.400 yd).[15] Nó cũng được trang bị mười sáu khẩu pháo SK 8,8 cm (3,5 in) L/45 nhằm tự vệ chống lại các tàu phóng lôitàu khu trục. Các khẩu pháo này cũng được bố trí trên các bệ kiểu MPL C/01-06, được cung cấp tổng cộng 3.200 quả đạn pháo; chúng bắn ra đạn pháo nặng 9 kg (20 lb) với tốc độ 15 phát mỗi phút và tầm xa cho đến 10.694 m (11.695 yd), khá xa đối với một loại vũ khí có cỡ nòng nhỏ.[15] Đến cuối năm 1916, trong khi sửa chữa những hư hại phải chịu đựng trong trận Jutland, các khẩu pháo 8,8 cm của Von der Tann được tháo dỡ, các cửa ụ pháo được hàn kín, đồng thời hai khẩu 8,8 cm phòng không được bổ sung phía sau cấu trúc thượng tầng.[16]

Giống như những tàu chiến chủ lực vào thời đó, Von der Tann còn được trang bị bốn ống phóng ngư lôi 45 cm (18 in) với tổng cộng 11 quả ngư lôi. Chúng được bố trí trước mũi, sau đuôi và hai bên mạn tàu. Kiểu ngư lôi này mang đầu đạn nặng 110 kg (240 lb), và có tầm bắn hiệu quả 2 km (1,1 nmi) khi cài ở tốc độ 32 kn (59 km/h), nhưng bị giảm còn 1,5 km (0,81 nmi) nếu phóng ở tốc độ 36 kn (67 km/h).[15]

Vỏ giáp

Sơ đồ của Von der Tann như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1913; các vùng xám được bảo vệ bởi vỏ giáp.

Vì Von der Tann được thiết kế để chiến đấu bên trong hàng chiến trận, vỏ giáp của nó dày hơn nhiều so với các tàu chiến-tuần dương Anh. Von der Tann nặng hơn 2.000 t (2.000 tấn Anh; 2.200 tấn thiếu) so với lớp tàu chiến-tuần dương Indefatigable,[17] và sử dụng 10% nhiều hơn trọng lượng của nó dành cho vỏ giáp so với những tàu chiến-tuần dương mà nó đối đầu trong trận Jutland.[15]

Vỏ giáp của Von der Tann cấu trúc bằng giáp thép Krupp. Đai giáp chính dày 80–120 mm (3,1–4,7 in) ở phía trước, dày đến 250 mm (9,8 in) ngang với phần thành trì và 100 mm (3,9 in) phía đuôi. Tháp chỉ huy phía trước được bảo vệ bởi lớp giáp dày 250 mm (9,8 in) trong khi tháp chỉ huy phía sau chỉ dày 200 mm (7,9 in). Bốn tháp pháo chính có mặt trước dày 230 mm (9,1 in), mặt hông dày 180 mm (7,1 in) và nóc dày 90 mm (3,5 in). Lớp giáp ngang của sàn tàu dày 25 mm (0,98 in) trong khi phần nghiêng dày 50 mm (2,0 in).[18] Giống như chiếc tàu tuần dương bọc thép Blücher dẫn trước, nó được bảo vệ bởi một vách ngăn chống ngư lôi dày 25 mm (0,98 in), được bố trí cách 4 m (13 ft) về phía sau vỏ lườn tàu bên ngoài; khoảng trống ở giữa được dùng để chứa than.[19]

Hệ thống động lực

Von der Tann được cung cấp động lực bởi 18 nồi hơi đốt than hải quân kép, được phân thành năm phòng nồi hơi. Hơi nước được cung cấp với áp lực 235 psi (16,0 atm)[Chuyển đổi: Tùy chọn không hợp lệ].[19] Von der Tann là chiếc tàu chiến lớn đầu tiên của Đức sử dụng động cơ turbine hơi nước; nó dùng hai bộ turbine: turbine áp lực cao dẫn động các trục phía ngoài trong khi các turbine áp lực thấp dẫn động hai trục giữa, mỗi trục có một chân vịt đường kính 3,6 m (12 ft). Hệ thống động lực của con tàu được thiết kế để cung cấp một công suất 42.000 shp (31.000 kW) để đạt được tốc độ tối đa 24,8 kn (45,9 km/h). Tuy nhiên, giống như mọi tàu chiến-tuần dương Đức sau này, con tàu có thể chạy nhanh hơn đáng kể. Trong các cuộc chạy thử mạ̣y ngoài biển, các động cơ đã đạt công suất 79.802 shp (59.508 kW) ở tốc độ tối đa 27,757 kn (51,406 km/h).[16] Trong một chuyến đi từ Tenerife quay trở về Đức, tốc độ trung bình của nó là 27 kn (50 km/h) và đạt đến tốc độ tối đa 28 kn (52 km/h). Vào lúc hạ thủy, nó là chiếc tàu chiến dreadnought nhanh nhất.[6] Con tàu có hai bánh lái song song, được kiểm soát bằng các động cơ hơi nước. Hệ thống phát điện của Von der Tann bao gồm sáu máy phát turbine hơi nước cung cấp một công suất tổng cộng 1.200 kW (1.600 hp).[16]

Giống như nhiều tàu chến chủ lực Đức khác, Von der Tann gặp phải những vấn đề mãn tính đối với chất lượng than kém thường được cung cấp cho các nồi hơi của con tàu.[Ghi chú 6] Sau khi kết thúc cuộc bắn phá Scarborough, chỉ huy của Von der Tann, Đại tá Hải quân Max von Hahn, nhận xét rằng "than kém chất lượng và tính năng cháy của nó đã đưa đến khói dày đặc, làm bộc lộ vị trí của chúng ta."[20] Trong trận Jutland, con tàu không thể duy trì tất cả các nồi hơi sau 16 giờ 00 do than kém phẩm chất.[21] Nhiều tàu chiến Đức khác cũng mắc phải khó khăn tương tự trong trận đánh, kể cả DerfflingerSeydlitz.[22] Sau năm 1916, việc đốt than trong các nồi hơi được tăng cường bằng cách phun hắc ín lên than nhằm để than cháy tốt hơn.[16]

Các đặc tính khác

Các thùng chống lật Frahm được trang bị trong khi chế tạo, nhưng chúng tỏ ra không hiệu quả,[19] chỉ giảm sự lật nghiêng được 33%.[23] Các sống lườn tàu sau đó được bổ sung để cải thiện độ ổn định, và chỗ trống trước đây dành choc ác thùng chống lật được dùng để chứa thêm nhiên liệu.[4] Con tàu có thể mang thêm 180 t (200 tấn thiếu) than tại các thùng chống lật.[24] Lườn tàu của Von der Tann bao gồm 15 ngăn kín nước, và một đáy kép kéo dài đến 75% chiều dài con tàu.[8] Nó được biết đến như là con tàu có đặc tính cơ động tốt, bị mất cho đến 60% tốc độ và nghiêng đến 8° khi bẻ hết lái.[19]

Chỗ nghỉ ngơi dành cho thủy thủ đoàn được bố trí theo đó sĩ quan được sắp xếp ở mũi tàu. Cách sắp xếp như thế tỏ ra không thỏa đáng, và không được lặp lại trên các lớp sau.[23] Von der Tann được thiết kế để trang bị cột ăn-ten dạng lồng, nhưng nó được trang bị thay thế bằng các cột ăn-ten tiêu chuẩn. Vào năm 1914, các trạm quan sát được đặt trên các cột để trinh sát điểm rơi của pháo binh. Đến năm 1915, các cuộc thử nghiệm thủy phi cơ được tiến hành trên Von der Tann, và một cần trục được gắn phía đuôi tàu để nâng máy bay lên tàu. Von der Tann nguyên được trang bị lưới chống ngư lôi, nhưng được tháo bỏ vào cuối năm 1916.[16]